Một là, tập
trung xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về tài nguyên nước,
trọng tâm là rà soát, điểu chỉnh, bổ sung các quy định về cấp phép khai
thác, sử dụng nước, xả nước thải vảo nguồn nước; đánh giá khả năng tiếp
nhận nước thải của nguồn nước; xử lý, trám lấp giếng không sử dụng; bảo
vệ nước dưới đất; các định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá... để đáp ứng
yêu cầu quản lý trong tình mới; xây dựng các quy định, hướng dẫn xác
định và công bố dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu hồ chứa để quản lý, giám
sát chặt chẽ hơn các hoạt động vận hành hồ chứa. Nghiên cứu xây dựng
chiến lược an ninh nguồn nước quốc gia.
Hai là, tập trung rà soát, tổng kết, đánh giá tình hình vận
hành các hồ chứa, trên cơ sở đó điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các quy
trình vận hành liên hồ chứa nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp vận hành
điều tiết nước đáp ứng yêu cầu về phòng, chống, giảm lũ, cấp nước mùa
cạn và phát điện của các hồ chứa.
Ba là, tập trung chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra việc
triển khai các quy định của pháp luật về tài nguyên nước, trọng tâm là
các quy định mới như: ưu đãi đối với việc sử dụng nước tiết kiệm hiệu
quả, lập và quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước; thu tiền cấp quyền khai
thác tài nguyên nước (sau khi được Chính phủ ban hành); giám sát các
hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn
nước trên cơ sở áp dụng hệ thống thông tin, công nghệ tự động trực
tuyến; giám sát việc vận hành của các hồ chứa theo quy trình liên hồ và
việc xả dòng chảy tối thiểu. Quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động
bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, nhất là khai thác, tận thu cát, sỏi trên
sông, hồ, san lấp, bờ sông.
Bốn là, tập trung xây dựng quy hoạch tài nguyên nước, trước
hết là quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông Hồng, Quy hoạch tài nguyên
nước chung của cả nước và Quy hoạch tài nguyên nước một số lưu vực sông
liên tỉnh như Cửu Long, Sê San, Srepok... Xây dựng quy hoạch tổng thể
điều tra cơ bản tài nguyên nước; đẩy mạnh công tác điều tra tìm kiếm
nguồn nước dưới đất ở những khu vực khan hiếm nước, thiếu nước, hải đảo.
Tập trung nghiên cứu, đánh giá sụt lún đất ở các thành phố Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, đồng bằng sông Cửu Long làm căn cứ để đề xuất
việc quản lý, giám sát chặt chẽ hơn các hoạt động khai thác nước dưới
đất, đồng thời tích hợp vào các kịch bản biến đổi khí hậu. Triển khai
thực hiện dự án Điều tra đánh giá tổng thể nguồn nước, cảnh báo, dự báo
phòng chống khô hạn, xâm nhập mặn ứng phó với biến đổi khí hậu khu vực
Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Nghiên cứu khả năng, đề xuất giải pháp giữ
nước cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long và khu vực miền Trung - Tây
Nguyên.
Năm là, tập trung nghiên cứu, xây dựng hệ thống giám sát các
hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn
nước bằng công nghệ tự động, trực tuyến. Trong đó, chú trọng việc kiểm
soát toàn diện, theo thời gian thực việc vận hành các hồ chứa theo quy
trình vận hành liên hồ và các hoạt động xả nước thải của các cơ sở xả
nước thải lớn, gây ô nhiễm nguồn nước.
Thống kê, phân loại nguồn nước, công bố danh mục các nguồn nước bị ô
nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nghiêm trọng và danh sách các cơ sở khai
thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước gây ô nhiễm, suy thoái,
cạn kiệt nghiêm trọng nguồn nước.
Sáu là, tập trung kiểm tra, thanh tra và kiên quyết xử lý vi
phạm đối với việc vận hành giảm lũ cho hạ du, điều tiết nước trong mùa
cạn, bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu của các hồ theo quy trình liên
hồ chứa trên các lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Sê San, Srepok và
Đồng Nai.
Bảy là, tiếp tục kiên trì hợp tác, đấu tranh bằng các hình
thức đa dạng, phù hợp, trên nhiều diễn đàn nhằm bảo đảm khai thác sử
dụng công bằng hợp lý nguồn nước chung của 6 quốc gia trên lưu vực sông
Mê Công và bảo đảm sử dụng nước ở bất kỳ một quốc gia nào cũng không
được gây hại đáng kể cho các quốc gia khác theo Công ước về Luật sử dụng
các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy và thông
lệ quốc tế. Xúc tiến hợp tác với Trung Quốc trong việc chia sẻ thông tin
dữ liệu nguồn nước sông Hồng.
Tám là, tăng cường nguồn lực cho công tác quản lý tài nguyên
nước để đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình mới, trọng tâm là nguồn
lực để triển khai thực hiện, bao gồm cả kinh phí, tổ chức bộ máy và
năng lực thực thi. Thành lập và sớm đưa vào hoạt động 06 Ủy ban lưu vực
sông để tăng cường cơ chế điều phối, giám sát, phối hợp thực hiện, giải
quyết các vấn đề liên vùng, liên ngành, liên địa phương trong khuôn khổ
lưu vực sông, bảo đảm tính thống nhất trong quả lý, khai thác, sử dụng
và bảo vệ tài nguyên nước trên lưu vực sông.
Chín là, tuyên truyền phổ biến rộng rãi, hướng dẫn người dân
thực hiện các biện pháp sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả nhất là tưới
và thực hiện chính sách thu tiền khai thác nước ngầm để tưới cây theo
quy định của Luật để chống lãng phí nguồn nước.
CTTĐT